Tốt nghiệp ĐH Y Hà Nội năm 1974, bác sĩ Kiếm về công tác tại vụ I của Bộ Y tế rồi vào Nam làm giảng viên tại ĐH Y Dược TP Hồ Chí Minh. Năm 1980, bác sĩ Kiểm chuyển sang làm Trưởng khoa Khoa huyết học truyền máu, Bệnh viện Chợ Rẫy. Kể từ đó, ông đau lòng chứng kiến cảnh nhiều người nhập viện do rắn độc cắn song không thể làm gì giúp họ. Nguyên nhân là lúc đó Việt Nam chưa bào chế được huyết thanh kháng nọc (HTKN). Rắn ở mỗi vùng, mỗi nước có đặc điểm sinh thái riêng nên bệnh nhân cần loại thuyết thanh đặc trị và không thể sử dụng huyết thanh nhập ngoại.
Tới năm 1990, quyết tâm cứu người, bác sĩ Kiếm cùng đồng nghiệp tự mày mò nghiên cứu bào chế HTKN trong điều kiện thiếu thốn về trang thiết bị cũng như tài chính. Công việc nghiên cứu tốn kém tới mức ông đã phải bán cả nhà riêng. Một trở ngại lớn nữa đối với công việc là chưa có nghiên cứu đầy đủ nào về các loại rắn độc ở Việt Nam. Do vậy, nhóm nghiên cứu phải lặn lội khắp mọi miền đất nước để khảo sát rắn độc ở từng vùng. Kết quả khảo sát cho thấy ở Việt Nam có hai họ rắn độc: họ rắn hổ (hổ đất, hổ mèo, hổ mang, hổ chúa, cạp nong, cạp nia…) và họ rắn lục (phổ biến nhất là choàm quạp và lục xanh). Nọc của họ rắn hổ thường gây liệt thần kinh cơ trong khi nọc rắn lục gây rối loạn đông cầm máu (bệnh nhân chảy máu tới chết).
Ước tính ở Việt Nam có tới 30.000 người bị rắn cắn mỗi năm, trong đó 2/3 bị nhiễm độc. Họ là những người đi rừng, nông dân, người đi làm kinh tế mới, v.v… Phương pháp duy nhất cứu sống bệnh nhân nhiễm độc nọc rắn là bào chế các kháng thể trung hoà nọc độc hay huyết thanh đặc hiệu (đối với từng loại rắn độc).
Ban đầu, nhóm nghiên cứu của bác sĩ Kiếm tập trung bào chế huyết thanh kháng nọc của hai loại rắn độc phổ biến nhất ở miền nam: hổ đất (Tây Nam Bộ) và choàm quạp (Đông Nam Bộ). Theo thống kê thì tỷ lệ bệnh nhân bị rắn hổ đất cắn là 30% trong khi choàm quạp xấp xỉ 25%. Để chế huyết thanh, họ lấy nọc rắn rồi xử lý để cho nọc không còn độc song vẫn giữ được tính kháng nguyên. Tiếp đến, nọc được tiêm vào cơ thể ngựa để kích thích hệ miễn dịch của ngựa tạo ra các kháng thể theo quy trình đã định. Sau một thời gian, máu ngựa được hút ra để lấy các kháng thể và cuối cùng được tinh chế thành huyết thanh trung hoà nọc rắn. Công việc lấy nọc rắn khá nguy hiểm và đã có lần bác sĩ Kiếm bị một con choàm quạp đớp vào tay.
Huyết thanh kháng nọc… thu hút đầu tư!
Bước ngoặt xảy ra vào năm 1991 khi bệnh nhân Lê Quang Trường, 16 tuổi, tại Đồng Nai bị rắn hổ đất cắn và đã hôn mê 58 giờ. Được biết Khoa huyết học truyền máu đang thử nghiệm HTKN nên gia đình Trường đã nằn nì xin sử dụng, may ra cứu được tính mạng. Dựa trên các cơ sở khoa học và niềm tin vững chắc vào kết quả nghiên cứu, bác sĩ Trịnh Kim Ảnh, lúc đó là Giám đốc Bệnh viện Chợ Rẫy, đã quyết định cho phép sử dụng huyết thanh đang nghiên cứu. Sau hai giờ được truyền HTKN, Trường đã tỉnh lại. Như vậy, Trường là bệnh nhân bị rắn cắn đầu tiên ở Việt Nam được cứu sống bằng loại thuyết thanh đầu tiên do các nhà khoa học trong nước bào chế. Hiện Trường đang làm nghiên cứu sinh lấy bằng tiến sĩ tại Anh.
Tới năm 1993, Bộ Y tế đã cho phép Bệnh viện Chợ Rẫy tiến hành nghiên cứu và sản xuất HTKN. Năm 1995, HTKN được phép sử dụng lâm sàng tại đó. Trên thực tế, các tỉnh miền nam, kể cả bệnh viện Bạch Mai cũng xin thuốc từ Chợ Rẫy để điều trị cho bệnh nhân. Tháng 7-2003, nhóm nghiên cứu của bác sĩ Kiếm đã được Cục Sở hữu trí tuệ cấp bằng độc quyền sáng chế về quy trình công nghệ huyết thanh kháng nọc rắn hổ đất và rắn choàm quạp. Hiện bác sĩ Kiểm đang xin thực hiện đề tài hoàn thiện công nghệ sản xuất HTKN rắn hổ và choàm quạp để có thể sản xuất thành dược phẩm quy mô lớn hơn, phục vụ cộng đồng vào năm 2007.
Không dừng lại ở những thành công nói trên, nhóm nghiên cứu của bác sĩ Kiểm tiếp tục nghiên cứu HTKN rắn cạp nia từ năm 1999 và đã sử dụng cho bệnh nhân. Tỷ lệ bệnh nhân bị cạp nia cắn chiếm 3-5%. Sau đó, thấy rắn hổ chúa cũng rất nguy hiểm nên bác sĩ Kiểm đã xin thực hiện đề tài nghiên cứu bào chế HTKN rắn hổ chúa. HTKN rắn hổ chúa ra đời năm 2002 và hiện bác sĩ Kiểm tiếp tục hoàn thiện công nghệ sản xuất tại Trung tâm chống độc quốc gia (Bệnh viện Bạch Mai-Hà Nội), nơi ông đang công tác. Dự định của ông là bào chế các loại HTKN của mọi loại rắn độc ở Việt Nam nhằm giảm thiểu số người tử vong do rắn cắn. Ước tính giá thành HTKN do ông sản xuất chỉ ở vào khoảng 200.000-300.000đồng/lọ, rẻ hơn 50 lần so với huyết thanh của các nước khác.
Nhiều tin vui đã đến với bác sĩ Kiểm vào đầu năm nay khi Đài Loan khẳng định sẽ tài trợ hơn 1 triệu USD trong giai đoạn 2005-2010 để giúp Việt Nam sản xuất HTKN. Một số trường đại học của Mỹ chẳng hạn như ĐH Nam California cũng đề nghị hợp tác với ông nhằm nghiên cứu nọc rắn để chế tạo thuốc điều trị ung thư. Ông tâm sự nguyện vọng lớn nhất của ông là hợp tác với nước ngoài để thành lập một phòng nghiên cứu nọc rắn điều trị ung thư bởi việc đó sẽ giúp ích cho cộng đồng hiệu quả và lâu dài hơn. Hy vọng là với lòng say mê nghiên cứu cộng với sự tài trợ trong và ngoài nước, TS BS Trịnh Xuân Kiếm sẽ thực hiện được mơ ước này.
Nguồn: Báo Nhân dân